Chứng quyền có bảo đảm (CW): Cuộc chơi giữa “nhà cái” và nhà đầu tư?

0
985
 Công ty chứng khoán (CTCK) là tổ chức phát hành sản phẩm chứng quyền có bảo đảm (CW), đồng thời phải thực hiện tạo lập thị trường. Liệu đây có phải là cuộc chơi giữa “nhà cái” – là CTCK và nhà đầu tư không? Đó là câu hỏi được nhiều nhà đầu tư đặt ra. 

Băn khoăn của nhà đầu tư với sản phẩm mới

CW khác các sản phẩm khác là sản phẩm này do CTCK phát hành dựa trên 26 chứng khoán cơ sở trong nhóm VN30 được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch chứng khoán cho phép. Từ đó, CTCK sẽ lựa chọn các chứng khoán cơ sở đánh giá có tiềm năng tăng trưởng để phát hành CW.

Chính vì vậy, mua CW có thể khiến nhà đầu tư yên tâm hơn vì đã được “lọc” 2 lần, thay vì nhà đầu tư tự lựa chọn trong hàng nghìn cổ phiếu đang niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán hiện nay. Bên cạnh ưu điểm này, CW được biết là sản phẩm có tính đòn bẩy cao, chi phí vốn ban đầu bỏ ra thấp và không rủi ro call margin như chứng khoán cơ sở, chứng khoán phái sinh.

Ðể sở hữu chứng quyền, nhà đầu tư có thể mua lúc tổ chức phát hành chào bán lần đầu (IPO) CW trên thị trường sơ cấp hoặc mua trên sàn khi CW niêm yết ngày 28/6 tới đây. Và giống như chứng khoán cơ sở, CW không được phép bán khống.

Giá của CW không bị điều chỉnh bởi các sự kiện của doanh nghiệp, nhưng giá thực hiện quyền và tỷ lệ chuyển đổi của CW sẽ bị điều chỉnh. Giá CW sẽ chịu tác động bởi cung – cầu thị trường, biến động giá thị trường của chứng khoán cơ sở và giá thực hiện quyền và thời gian đáo hạn.

Khi sở hữu CW, nhà đầu tư sẽ không có bất cứ quyền nào đối với công ty như khi sở hữu chứng khoán cơ sở (quyền biểu quyết, quyền nhận cổ tức, quyền mua cổ phiếu phát hành thêm, quyền nhận cổ phiếu thưởng…). Ðiểm khác biệt nữa là CW có thời hạn, từ 3 – 24 tháng, nên nhà đầu tư cần nắm kỹ kỳ hạn để xem xét bán CW hay nắm giữ đến ngày đáo hạn.

Kỳ hạn ngắn thì CW sẽ có mức giá chứng quyền thấp hơn so với CW có kỳ hạn dài. Ghi nhận ý kiến các CTCK, kỳ hạn đang được nhà đầu tư ưa thích là 3 – 6 tháng. Ngoài kỳ hạn, nhà đầu tư cũng lưu ý đến tỷ lệ chuyển đổi để xác định CW đang đắt hay rẻ.

Khi đến ngày đáo hạn, nhà đầu tư sẽ được thanh toán bằng tiền mặt bằng khoảng tiền chênh lệch khi giá thanh toán của chứng khoán cơ sở cao hơn giá thực hiện. Trường hợp giá thanh toán thấp hơn giá thực hiện, CW sẽ không được thực hiện và nhà đầu tư mất tối đa bằng đúng số tiền ban đầu bỏ ra mua CW.

Giá thanh toán chứng quyền khi thực hiện quyền là bình quân giá đóng cửa của chứng khoán cơ sở trong 5 ngày giao dịch liền trước ngày đáo hạn, không bao gồm ngày đáo hạn.

Về thời điểm nên mua CW để có khả năng sinh lời cao, theo ông Vũ Giang Sơn, Bộ phận Cấu trúc sản phẩm, CTCK BSC, là lúc thị trường chứng khoán cơ sở đang giảm mạnh, có nhiều cổ phiếu tốt giảm sàn 2 – 3 phiên. Lý do là CW diễn biến song hành với chứng khoán cơ sở, nhưng do tính đòn bẩy cao nên tỷ lệ giảm của CW cũng lớn hơn nhiều – là cơ hội tốt để mua vào. Khi thị trường hồi phục, tính đòn bẩy sẽ phát huy tác dụng, giúp nhà đầu tư có mức sinh lời tốt hơn. Ðiểm quan trọng nhất với nhà đầu tư vẫn là đánh giá được chứng khoán cơ sở đang cao hay thấp.

Nhiều nhà đầu tư băn khoăn, trong rất nhiều sản phẩm CW sắp phát hành, nên chọn CW nào để đầu tư? Ông Nguyễn Ðức Thông, Giám đốc Dự án phái sinh, CTCP Chứng khoán SSI (SSI) cho rằng, giá CW gắn với giá chứng khoán cơ sở và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nên điều đầu tiên nhà đầu tư phải nắm được là các doanh nghiệp có lịch sử tăng trưởng tốt và xem xét doanh nghiệp liệu có triển vọng tăng trưởng, có lý do để cổ phiếu tăng giá trong tương lai hay không.

Nhà đầu tư cũng cần tham khảo báo cáo tài chính của doanh nghiệp, báo cáo phân tích của CTCK về chứng khoán cơ sở để chọn được sản phẩm CW dựa trên mã nào có khả năng sinh lời tốt. Sau đó, nhà đầu tư cần chú ý tới việc chọn kỳ hạn. CW kỳ hạn ngắn thì giá rẻ hơn, nhưng trong ngắn hạn thông tin tác động có thể phản ánh hết khiến giá chưa tăng như kỳ vọng. CW kỳ hạn dài hơn có giá mua đắt hơn, nhưng khả năng tăng giá có thể cao hơn, vì cổ phiếu tốt sẽ đạt mức tăng trưởng cao trong thời gian dài.

Một yếu tố quan trọng không kém, theo ông Thông, là kỳ vọng của nhà đầu tư trong 3 – 6 tháng tới, cổ phiếu cơ sở tăng trưởng ra sao, từ đó cân nhắc các CW với những mức giá thực hiện, giá chứng quyền để lựa chọn. Tương tự như vậy, với các mức giá khác nhau của CW thì có mức sinh lợi khác nhau. Tuỳ vào mức độ rủi ro và sức chịu đựng của mỗi nhà đầu tư để chọn khung thời gian đáo hạn.

Một đặc điểm rất đáng lưu ý khác là các tổ chức phát hành có thể phát hành CW trên cùng một chứng khoán cơ sở, miễn tổng lượng CW quy đổi tương ứng số lượng cổ phiếu không vượt quá tỷ lệ 10% cổ phiếu tự do chuyển nhượng của cổ phiếu đó. Vậy ưu điểm của CW do mỗi CTCK phát hành trong trường hợp này nằm ở đâu?

Theo ông Thông, trước  hết, có khả năng sẽ có sự khác nhau giữa ngày đáo hạn, giá thực hiện, tỷ lệ chuyển đổi. Ngược lại, nếu giống nhau ở các tiêu chí này, tùy thuộc sự định giá của mỗi CTCK để đưa ra mức giá CW khác nhau.

Sự cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng thanh toán khi CW đáo hạn và khả năng tạo lập thị trường (dùng hệ thống tạo lập được thiết lập một số tham số khá tương đồng nhau, số ít khác có thể có sự khác biệt hơn). Trên thực tế, mỗi CTCK đều có những lợi thế riêng để thu hút nhà đầu tư. Những CTCK có tệp khách hàng cá nhân tốt sẽ giúp thanh khoản của CW do công ty đó phát hành có thanh khoản tốt hơn. Nguồn vốn lớn, hạn mức tự doanh lớn cũng giúp CTCK sau này có thể phát hành được nhiều loại CW hơn.

Cuộc chơi có win – win giữa nhà đầu tư và CTCK?

Ghi nhận tại các nhiều hội thảo về CW, ngoài vấn đề ảnh hưởng của giá CW tới chứng khoán cơ sở thì nội dung được nhà đầu tư quan tâm nhất là liệu tham gia CW có giống như cuộc chơi giữa “nhà cái” là CTCK và nhà đầu tư. Ða phần ý kiến của các CTCK đều cho rằng, đây là cách hiểu sai.

Bởi lẽ, khi CTCK phát hành CW đã phải mua chứng khoán cơ sở làm tài sản đảm bảo. Nếu chứng khoán cơ sở giảm giá, mức độ thua lỗ của CTCK còn lớn hơn so với nhà đầu tư cá nhân (tối đa bằng phí mua CW) nên chắc chắn đây là cuộc chơi song hành.

Ngược lại, nếu chứng khoán cơ sở tăng giá, cả CTCK và nhà đầu tư đều hưởng lợi. Tức CTCK phải tìm mã có tiềm năng tăng trưởng, có khả năng tăng giá tốt nhất nhằm đảm bảo số cổ phiếu “tồn kho” mà CTCK mua làm tài sản đảm bảo sẽ không bị lỗ. Khi thị trường có quyền chọn bán thì CTCK mới có thể có nguồn thu lớn hơn, còn hiện chỉ có quyền chọn mua thì CTCK đối mặt rủi ro cao hơn so với nhà đầu tư mua CW.

Ông Thông cũng cho rằng, bất kỳ CTCK nào phát hành CW cũng sẽ kỳ vọng giá chứng khoán lên. Chưa kể, chứng khoán cơ sở được lựa chọn làm CW thuộc danh mục VN30, đã được sàng lọc về thanh khoản, có vốn hóa lớn, có tỷ lệ cổ phiếu tự do chuyển nhượng cao nên rủi ro để bị thao túng đã giảm đi rất nhiều. CW ra đời dựa trên các cổ phiếu đó sẽ có ít rủi ro bị làm giá, thao túng.

Việc phát hành nhiều CW sẽ đòi hỏi CTCK phải có dự báo tốt về diễn biến thị trường chứng khoán trong ngắn và trung hạn, nhằm tối ưu hóa việc phát hành CW ra thị trường có thể được hấp thụ tốt và có thanh khoản cao.

Nếu dự báo sai về xu hướng thị trường, việc phát hành quá nhiều CW khi thị trường diễn biến tiêu cực có thể khiến CTCK chịu gánh nặng về chi phí như chi phí vốn ký quỹ với ngân hàng lưu ký, chi phí vốn xây kho, chi phí vận hành và chi phí hệ thống.

Bên cạnh đó, việc lựa chọn chứng khoán cơ sở để làm CW cũng rất quan trọng vì có thể ảnh hưởng tới giá trị kho hàng mà CTCK nắm giữ. Rủi ro có thể sẽ lớn hơn nếu chứng khoán cơ sở trong kho bị giảm giá, khiến CW không thanh khoản và nhà đầu tư mất niềm tin vào việc lựa chọn của CTCK phát hành CW.

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here